1. Bài văn phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Hồ Chí Minh số 1
Hồ Chí Minh, người lãnh tụ được lòng mọi người, đã trải qua bao gian khó, thăng trầm trong cuộc đời cách mạng. Bài thơ ‘Chiều tối' trong tập ‘Nhật kí trong tù' là tác phẩm lưu danh, thể hiện tinh thần lạc quan và niềm tin của Bác dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Bức tranh chiều tối rừng núi, với cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn, chính là biểu tượng cho lòng tự do, khao khát về quê hương.
Bài thơ được sáng tác khi Bác được giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bác mô tả một chiều tối buồn bã, nhưng trong đó ẩn chứa niềm hy vọng. Hình ảnh cánh chim mỏi mệt trở về tổ và đám mây trôi nhẹ giữa bầu trời là biểu tượng của lòng tự do không ngừng bay bổng.
Chòm mây trôi giữa tầng không, cánh chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, trong khi Bác đang bước đi giữa gông xiềng. Đây không chỉ là cảnh thiên nhiên, mà còn là tâm hồn chiến sĩ chiến thắng mọi khó khăn. Bài thơ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu sắc, khắc sâu vào lòng người đọc.
Trong bức tranh chiều tối ấy, Bác mô tả thêm hình ảnh sơn thôn thiếu nữ xay ngô, với lò than rực hồng. Hình ảnh đơn giản nhưng ấm áp, là biểu tượng của cuộc sống bình dị và hạnh phúc. Cô gái xay ngô, lò than hồng nhanh, tạo nên một khung cảnh tươi vui giữa chiều tối u buồn.
Bài thơ ‘Chiều tối' không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, mà còn là tấm gương sáng về tâm hồn, lòng yêu nước, và lòng nhân ái của Người. Nó giúp chúng ta nhìn nhận về những giá trị thiêng liêng, đồng thời truyền đạt tinh thần kiên trung, không khuất phục trước khó khăn. Hãy cùng nhau tìm hiểu và cảm nhận tác phẩm vô cùng ý nghĩa này.
2. Phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Hồ Chí Minh – Bài 3
Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù.
Tập thơ này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Tháng 8/1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và bị “mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối”.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”
Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”.
Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
(Chim trời bay đi mất
Mây lẻ trôi một mình)”
Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn.
Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật.
Đúng như Tố Hữu đã từng viết “Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”. Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”.
Cùng với “Quyện điểu quy lâm”, là “Cô vân mạn mạn”. Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời.
Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển. Mặc dù câu thơ dịch: “Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó.
Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là TINH THẦN THÉP vĩ đại của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng “Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời Thịnh Đường”
Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn:”Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản.
Câu thơ nguyên bản”Sơn thôn thiếu nữ” dịch là “Cô em xóm núi” đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch.
Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Phần lớn người phụ nữ trong cổ thi đều mang nỗi buồn thương man mác vì chiến tranh sinh ly tử biệt hay lỡ dỡ tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán:
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”
Dịch thơ
“Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.”
Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ “thiếu nữ” gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa.
Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng “Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một “sơn thôn thiếu nữ” thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ”ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người.
Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động”.
Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối.
Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian.
Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.
Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối.
Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là “con mắt thơ” (Thi nhãn hoặc là nhãn tự (chữ mắt nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.
Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ “hồng” còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ Hồng ấy cũng đã từng xuất hiện:
“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”
Chữ hồng ấy với chữ hồng trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.
“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.”
(Trích nhật ký trong tù)
Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút.
Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
3. Phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Chủ tịch Hồ Chí Minh số 2
‘Nhật ký tù nhân' của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết từ ngày 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ một cách bất công, lan rộng khắp các trại lao động ở Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ của ‘Nhật ký tù nhân', có những bài ghi chép về những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sáng, Buổi trưa, Qua trưa, Buổi chiều, Buổi tối, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài thơ là một cảm xúc trong những tháng ngày ‘cơn ác mộng'.
‘Chiều tối' (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong ‘Nhật ký tù nhân'. Bài thơ số 32 là ‘Đêm ngủ ở Long Tuyền'. Vì vậy, bài ‘Chiều tối' mô tả cảnh làng núi khi mặt trời khuất sau đỉnh núi vào tháng 10/1942.
Đây là bản gốc của bài thơ:
‘Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một điểm dừng chân… của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, dường như chỉ mô tả cảnh chiều tối nơi làng núi xa lạ.
Hai câu đầu tả bầu trời khi mặt trời khuất. Hai nét vẽ ‘động' cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm nơi ẩn náu, một đám mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang trôi nhẹ (mạn mạn). Cấu trúc hai câu thơ đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn. Người lính bị giam giữ nhìn lên bầu trời, theo dõi cánh chim bay và đám mây trôi nhẹ nhàng, trái tim đầy cảm xúc. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh đã lồng ghép tâm cảnh. Câu thơ dịch của Nam Trân có thể không thể hiện chữ ‘cô' trong ‘cô vân' nhưng khá tốt:
‘Chim mệt về rừng tìm chỗ ngủ
Đám mây trôi nhẹ giữa từng trời'.
Hai câu thơ 1, 2 mang đẹp cổ điển: mô tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét phác thảo (chim bay, mây trôi) nhưng khơi gợi tâm hồn cảnh vật, buổi tối buông xuống dần, tạo nên không khí như đang chuyển từ trạng thái hoạt động sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật sử dụng điểm nhấn đồ họa, sử dụng động tả tĩnh được áp dụng sáng tạo.
Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm nhận bầu trời rộng lớn hơn, cảnh chiều tối yên bình, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở làng núi này còn mang đến một ý nghĩa ước mơ, mở rộng sự liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong linh hồn của mỗi người,…nhớ đến một chú chim bay trong ‘Truyện Kiều': ‘Chim hôm thoi thót về rừng'; nhớ đến một chú chim mệt mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:
‘Ngàn mai gió cuốn, chim bay mệt mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn
(Buổi tối nhớ nhà)
Quay lại bài ‘Chiều tối', đám mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là biểu tượng về người tù nhân trên con đường khó khăn xa xôi! Ngôn ngữ thơ chứa đựng hàm súc, biểu cảm, vừa mô tả cảnh vật vừa mô tả tâm trạng, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, phong phú. Câu cuối 3 – 4 từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người ở nơi núi. Thiếu nữ và bếp than hồng là trung tâm của bức tranh này:
‘Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng'.
Một hình ảnh trẻ trung, giản dị, đáng yêu: Thiếu nữ làng núi đang xay ngô. Ba chữ ‘ma bao túc' ở cuối câu ba được nối lại với ‘bao túc ma hoàn…' ở đầu câu 4, động tác êm dịu xay ngô, đồng thời diễn đạt sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngô thủ công. Đặc điểm chăm chỉ của thiếu nữ làng núi được cảm nhận và tôn trọng. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ liên tục đã tạo ra thơ một cách mạch lạc và âm nhạc.
Câu thơ dịch: ‘Em gái làng núi xay ngô tối', với 2 từ 'em gái' đã làm mới phong cách thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ ‘tối' được thêm vào đã làm cho ý thơ trở nên rõ ràng, không còn ẩn chứa ý nghĩa của ngôn từ trong bài thơ này?.
Thực tế những vật phẩm tiếp theo theo quy luật thời gian mà xuất hiện: Khi hạt ngô được xay xong, than hồng đã tỏa sáng, tươi bừng, tạo ra một cảnh tượng ấm áp. Khi màn đêm bao phủ mọi thứ, lò than đỏ rực, hình ảnh ấy thu hút sự chú ý của người tù nhân đang được giải thoát. Bao nhiêu cảnh đời khốn khổ trong những lò than lạnh lẽo! Bao nhiêu ánh sáng ấm áp từ chiếc đèn, chiếc bếp hồng giữa đêm tối.
Hình ảnh thiếu nữ làng núi xay ngô và lò than rực hồng trở thành biểu tượng của một tổ ấm gia đình, nó đã xua tan đi nỗi cô đơn lạnh lẽo. Hướng về một cảnh sống dân dụ bình thường: thiếu nữ xay ngô, nhìn chăm chú vào bếp lửa, lò than rực hồng, trong khi chân tay mang những xiềng xích nặng nề, được giải thoát trong buổi tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy một nơi an toàn cho tâm hồn mình. Có vẻ như nỗi cô đơn, nỗi buồn bã đã bị xua đi.
Một chút ước mơ vụng trộm về một mái ấm gia đình đã hiện hữu trong tâm trí nhà thơ trên con đường đi đày xa xôi trong bóng tối buông xuống. Nguồn cảm hứng thơ tràn đầy bản chất nhân văn. Cái bình dị đích thực mà tràn ngập tinh thần thơ. Bản chất thơ ấy là tâm hồn con người và tình yêu đối với cuộc sống. Hai hình ảnh về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai hình ảnh đẹp, giản dị, tràn đầy sức sống và trẻ trung, làm nổi bật vẻ cổ điển và đồng thời hiện đại của thơ, sự đơn giản và ấm áp. Cảnh đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đẹp mà còn chứa đựng tâm hồn ‘bát ngát tình'. Bài thơ truyền tải cảm xúc của một tình yêu mênh mông dành cho thiên nhiên và con người. Trong cuộc sống khó khăn, tinh thần Chủ tịch vẫn tràn đầy sự sống.
‘Chiều tối' – một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại và giản dị. Bốn câu thơ chuyển động từ cảnh vật đến tâm hồn, từ sự tối đến sự sống, từ ánh sáng đến tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một tâm hồn tràn ngập sự sống.
4. Bài văn phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Chủ tịch Hồ Chí Minh số 5
‘Tình yêu đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh là tình yêu trọn vẹn nhất trong lòng nhân dân và trái tim nhân loại'. Trong cuộc sống hàng ngày, Chủ tịch sống giản dị với phong cách sống thanh cao. Trong công việc, Người là người nghiêm túc và chu toàn. Trong thơ ca, tâm hồn và vẻ đẹp của Chủ tịch được thể hiện mạnh mẽ qua những dòng thơ truyền cảm.
‘Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình'
Thơ Bác không chỉ đẹp mà còn đẹp bởi tâm thơ, tinh thần ‘thép' trong từng dòng thơ và bởi tình cảm của thơ. Chiều tối là một bức tranh thơ đặc sắc, thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa nét cổ điển và tinh thần hiện đại, là một tác phẩm thành công của văn học Việt Nam.
Bài thơ Chiều tối được sáng tác vào năm 1943, thời kỳ Chủ tịch bị chính sách của Tưởng Giới Thạch bắt giam, trải qua nhiều khó khăn khi chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, một cách vận dụng tài tình.
Người tù bị áp giải giữa núi rừng bạt ngàn, chiều dần buông xuống khiến lòng người thấp thoáng nỗi buồn chơi vơi. Có lẽ, trong các khoảnh khắc của một ngày, buổi chiều là thời điểm con người tích tụ nhiều cảm xúc và nỗi lòng nhất, cũng bởi vậy thơ cổ thường dùng cánh chim chiều hoàng hôn để gợi nỗi buồn.
‘Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không'
Cảnh được mô tả bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng quen thuộc trong thơ xưa, cánh chim mệt mỏi chiều tà gợi sự xót xa, thương cảm.'Cô vân mạn mạn', giữa vô vàn chòm mây trên bầu trời thì có một chòm mây lại cô độc, đơn lẻ giữa khoảng không.
Đó là hình ảnh ẩn dụ cho người tù bị lưu đày nơi đất khách quê người, dường như giữa cảnh vật và con người có sự đồng điệu, cảm thông, hoà quyện giữa hồn và cảnh. ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ', cảnh vật thể hiện tâm trạng, có chút gì đấy lẻ loi, mủi lòng sâu thẳm nơi đáy lòng người chiến sĩ.
Hai câu thơ mang phong vị Đường thi nhưng vẫn chất chứa nét riêng trong thơ Bác.Thiên nhiên phảng phất nét buồn nhưng không bi lụy. Mệt mỏi thì nghỉ ngơi để rồi ngày mai lại bắt đầu cuộc hành trình mới, một cuộc sống mới. Đó là sự nỗ lực, là tâm hồn hướng tới sự sống, khát khao thoát khỏi những tù túng, vươn tới tự do như cánh chim ngang trời, nhẹ nhàng mà an nhiên. Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên cao rộng thì dòng cảm xúc hai câu cuối là bức tranh sinh hoạt đời thường:
‘Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.'
Hình ảnh người con gái được thể hiện nhiều trong thơ ca, nếu trong văn học trung đại, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng yếu đuối và số phận đầy long đong, lận đận, chìm nổi,trong thơ lãng mạn họ phảng phất nét buồn thì trong thơ Bác đó là con người giản dị, bình thường, công việc tuy vất vả nhưng đáng yêu và đáng trân trọng.
Hình ảnh'cô em' nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống, trẻ trung và đầy khoẻ khoắn, làm việc hăng say thật đáng quý biết bao. Bức tranh thiên nhiên hoà quyện hình ảnh con người dường như càng sinh động, ấm áp hơn. ‘Ma bao túc….bao túc ma hoàn', sự sáng tạo trong điệp ngữ vòng tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay của công việc.
Không gian từ trời đất cao rộng, bao la dần thu hẹp lại bên không gian sinh hoạt gia đình-bếp lửa ‘Xay hết lò than đã rực hồng' . Chỉ bằng một từ ‘hồng', được coi là nhãn tự bài thơ cùng bút pháp điểm xuyết khiến cho bao nhiêu cảm xúc ý tứ dường như được dồn nén, chất chứa bấy lâu được bung toả. ‘Hồng' – đó là ánh sáng của niềm tin, hy vọng, là ngọn lửa của ánh sáng xua tan bầu trời đêm, là ngọn lửa của hơi ấm xua tan đi lạnh lẽo, cô độc, là ngọn lửa của niềm vui, niềm lạc quan của tan nỗi buồn, mệt nhọc của thực tại.
Tâm hồn thi sĩ giờ đây chất chứa tình yêu, niềm thương mến hướng về đất nước, về mong ước ngày dân tộc hoà bình, thứ ánh sáng ấy to lớn và cao đẹp biết nhường nào. Chủ tịch vẫn như thế, dù thực tại có khó khăn đến đâu, Người vẫn luôn hướng về thiên nhiên, vẫn đau đáu lo lắng cho cuộc sống ấm no của dân tộc.
Bằng cách kết hợp hài hòa hình ảnh cổ điển và tinh thần hiện đại, cách diễn đạt ngắn gọn mà sâu sắc, cảm xúc dồn nén vào ý tưởng. Bút pháp gợi với những hình ảnh quen thuộc bình dị nhưng giàu cảm xúc, bài thơ Chiều tối đã thể hiện được tâm hồn của Chủ tịch, con người vững vàng niềm tin phía trước, giữ vững tinh thần thép trong cuộc sống.
Qua bài thơ, ta thấy được tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và ý chí kiên cường của người chiến sĩ. Đồng thời, bài thơ cũng chứng minh cho sự độc đáo trong phong cách thơ của Chủ tịch như một nhà thơ từng nói rằng ‘Thơ của Người đi từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai'.
5. Phân Tích ‘Chiều tối' – Tác Phẩm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 4
Không chỉ là nhà lãnh đạo vĩ đại, Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn là một nhà thơ tài năng với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong số đó, bài thơ “Chiều tối” – sáng tác trên đường đi đày từ nhà tù Tĩnh Tây sang Thiên Bảo, được đánh giá là một viên ngọc quý của văn thơ Việt Nam.
Hình ảnh của một ngôi làng vào buổi chiều tối được mô tả rất sinh động, nhưng trong đó chứa đựng ước mơ, khao khát tự do để tiếp tục sứ mệnh giải phóng đất nước.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim mỏi bay về rừng tìm chốn nghỉ
Chòm mây trôi nhẹ giữa bầu trời”
Hình ảnh những chú chim bay về tổ là lúc chiều tà, trên bầu trời trôi nhẹ một chòm mây làm toát lên vẻ đẹp yên bình, lặng lẽ của buổi chiều nơi làng quê, núi rừng. Chủ Tịch Hồ Chí Minh tự ví mình như chòm mây trôi lặng lẽ, cô đơn không có nơi trở về, nhưng trên đường chuyển nhà lao, Bác vẫn giữ tinh thần ung dung, lạc quan.
Chỉ với hai câu thơ mở đầu ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Không chỉ thể hiện nỗi cô đơn, hình ảnh chòm mây trôi nhẹ còn nói lên khao khát, ước mong tự do, trở về quê hương, đồng chí anh em.
Khung cảnh của rừng núi hoang vu, vắng vẻ được thể hiện rất chân thực qua con mắt của một người đang trong tình cảnh tù tội, gông cùm xiềng xích. Trong hoàn cảnh đó, người tù vẫn giữ được tinh thần kiên cường, ung dung. Trong hai câu thơ cuối, hình ảnh cô sơn nữ được đưa vào như một điểm nhấn bất ngờ mà tác giả muốn mang lại cho người đọc.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
Dịch thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
Như một điểm sáng giữa cảnh đồi núi bao la khiến bức tranh sơn dã trở nên sống động và tươi vui hơn. Đây là vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại đặc trưng trong sáng tác của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Sự xuất hiện của hình ảnh cô sơn nữ làm tăng thêm vẻ đẹp khỏe mạnh, đặc biệt là vẻ đẹp quý phái của người lao động.
Bản dịch thơ có vẻ không thể nào truyền đạt hết nghệ thuật và ý nghĩa mà tác giả muốn diễn đạt. Bác đã sử dụng lặp lại từ “bao túc” trong hai câu thơ cuối cùng, thể hiện sự liên kết, tuần hoàn như vòng quay của cô sơn nữ. Cô gái miệt mài xay ngô bên bếp than hồng để chuẩn bị bữa tối, tất cả đều là hình ảnh giản dị nhưng có sức hút rất lớn.
Tổng kết, bài thơ “Chiều tối” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh thể hiện một trái tim yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu con người đến mức quên mình. Người luôn quan tâm đến những điều bình dị và thân thuộc nhất, đó là một trong những đức tính đáng quý và cao đẹp của một vị lãnh đạo.
6. Phân Tích ‘Chiều tối' – Tác Phẩm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh – không chỉ là một người con vĩ đại của dân tộc mà khi nhắc đến cái tên ấy trong lòng mỗi người đều có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, một vị cha già giàu lòng nhân ái, yêu thương mà Bác còn nhà một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Tố Hữu từng viết:
‘Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình'
Thật vậy, thơ Bác là sự kết tinh tình cảm của một trái tim lớn thiết tha với dân tộc. Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ như thế, tiêu biểu cho phong cách thơ của Người. Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh khi Bác đang bị bắt và giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo mới thấy được hết giá trị của nó.
‘Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không'
Những buổi hoàng hôn thường mang dư vị buồn, bởi vậy, những con người xa quê mang nỗi nhớ da diết khi chiều tối lại càng thêm nhớ thêm thương. Cánh chim trên bầu trời kia sau ngày dài kiếm ăn mỏi mệt, bay nặng nề trên không trung về tổ ấm của mình để nghỉ ngơi. Chòm mây cũng nhỏ bé vô định giữa khoảng không bao la rợn ngợp. Chòm mây lơ lửng trôi nhẹ nhàng, bình yên đến vậy mà sao gợi nỗi buồn mênh mang.
Phải chăng thiên nhiên ấy đang chất chứa nỗi lòng của người tù cách mạng đang một mình đơn độc giữa núi rừng bạt ngàn nơi đây, lấy cánh chim với đám mây kia làm người bạn tâm giao gửi gắm nỗi lòng. Thiên nhiên dường như mang hồn cốt nỗi lòng của thi nhân, có khi cũng mỏi mệt đó nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là khát khao trở lại quê hương như cánh chim kia tự do bay về tổ ấm của mình sau hành trình dài mỏi mệt.
‘Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng'
Nếu hai câu trên là khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, cô đơn, lẻ loi, thì hai câu cuối mang dáng dấp của sự sống con người. Bức tranh ấy được trọn vẹn và sống động hơn bao giờ hết. Cảnh vật và con người hoà quyện vào nhau. Giữa núi rừng ấy là hình ảnh người con gái xay ngô tối đầy tập trung, siêng năng, miệt mài.
Bên ánh lửa giữa bầu trời đêm, cô gái hăng say làm việc. Một bức tranh sinh hoạt bình dị, đời thường mà khoẻ khoắn, gợi nét sinh động trong đời sống nhân dân. Giữa thiên nhiên bao la, cô em trở nên nổi bật và hấp dẫn lạ thường. Phải chăng đó là niềm mong ước của Bác gửi gắm vào những vần thơ về niềm tin vào một ngày đất nước hoà bình, nhân dân được bình yên, tự do lao động, tăng giá sản xuất chẳng còn nỗi lo mất nước.
“Xay hết lò than đã rực hồng”
Chữ ‘hồng” trở thành nhãn tự của bài thơ, chỉ một từ thôi mà nó chất chứa bao nhiêu ý nghĩa. Ánh than hồng xua tan đi màn đêm giá lạnh, xua tan nỗi cô độc của người tù nhân chốn xa xôi. Ánh than hồng là ánh sáng của cách mạng, là niềm tin vào tương lai, ánh than hồng chất chứa niềm hy vọng, sưởi ấm, thắp lên ngọn lửa tin yêu, lòng yêu nước thiết tha, hướng về sự sống, về ngày mai tốt đẹp. Ánh than hồng thật ấm áp, thân thương như tấm lòng Bác vậy.
Bài thơ chỉ bốn câu thôi mà sao nhiều ý vị đến vậy. Từ trong gông cùm, trong đau thương nhọc nhằn, Bác vẫn không hề bi quan, chán nản mà trái lại rất lạc quan, luôn hướng đến niềm vui, hướng đến sự sống với bao hy vọng. Bác không ngại vất vả gian nan, quên đi đau khổ của thực tại mà viết nên những vần thơ quá đỗi đẹp đẽ và thương yêu.
Nếu trong văn chính luận, văn phong Bác sắc sảo, chắc chắn, giàu sức thuyết phục với những lý lẽ chính xác, khách quan thì trong thơ Bác lay động lòng người bởi sự bình dị mà sâu sắc. Sự kết hợp vô cùng nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và nét hiện đại giúp thơ Bác mang một phong cách riêng, độc đáo, tài hoa.
Đọc bài thơ “Chiều tối”, em càng thêm khâm phục Bác, càng trân quý tự do và hoà bình hôm nay. Và tự hứa với lòng, dù trong khó khăn thử thách của cuộc sống vẫn không nản chí, giữ vững tinh thần lạc quan và niềm tin tất thắng ngày ngày phấn đấu nỗ lực hơn để xứng đáng là thế hệ trẻ bản lĩnh, tài năng như cách sống của Người.
7. Phân Tích Tác Phẩm ‘Chiều tối' của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 6
Trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn của người chiến sĩ và thi sĩ luôn được thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc và thấm thía qua nhiều thi phẩm. Một trong những tác phẩm tiêu biểu và độc đáo nhất chính là tứ thơ Chiều tối.
Chiều tối (Mộ) đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ tập Nhật ký trong tù, là một phần không thể thiếu trong bức tranh chân dung tự họa của Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, luôn hướng về sự sống dù ở bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt.
Sáng tác vào cuối thu năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc), Chiều tối là biểu tượng của nỗi lòng trong một chuyển ngục nhân cảnh trời chuyển tối.
Bài thơ thuộc thể thơ tứ tuyệt, được viết bằng chữ Hán, tiêu biểu cho thơ trữ tình của Hồ Chí Minh. Thơ giản dị nhưng ẩn sau đó là tầm nhìn hiện đại về cuộc sống và tình yêu thiên nhiên.
Hình ảnh chiều tối nơi núi rừng được tả một cách tinh tế:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bức tranh cổ điển của chiều tối kết hợp với những yếu tố hiện đại trong bài thơ, như cánh chim mệt mỏi tìm chốn nghỉ ngơi và đám mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời.
Câu thơ tiếp theo chuyển đến cuộc sống nhân dân, với hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô tối:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Mối liên kết giữa chiều tối và ánh sáng của lò than rực hồng tạo nên bức tranh ấm áp và tươi sáng của cuộc sống nông thôn.
Chiều tối không chỉ là cảnh thiên nhiên đẹp đẽ mà còn là biểu tượng của sự sống và tình yêu thương con người. Bài thơ kết hợp giữa nét truyền thống và tinh thần hiện đại, tạo nên một tác phẩm xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
8. Phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Chủ tịch Hồ Chí Minh số 9
Bác Hồ từng nói: “Việc làm thơ không phải khao khát/ Nhưng trong tù, ta làm thơ không tránh khỏi/ Ngày dài ngâm ngợi, chờ đến tự do”.
Trong Nhật kí trong tù, bài thơ Chiều tối nổi bật, sáng tạo khi Bác chuyển từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Bức tranh mở đầu là cảnh chiều tối:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Ảnh cánh chim, chòm mây nổi bật. Cánh chim không còn là biểu tượng cô đơn như trong thơ xưa, mà là hình ảnh của sự mệt mỏi, tìm chốn nghỉ ngơi. Chòm mây cô đơn trôi giữa không trung, như nỗi cô đơn của Bác. Bức tranh không chỉ mô tả bề ngoài mà còn chạm đến tâm cảnh, thể hiện tình yêu thiên nhiên của người tù.
Bác vận dụng quan sát tinh tế, nắm bắt thần hồn của cảnh vật, từ không gian thiên nhiên, người tù nhìn xa để cảm nhận cuộc sống đời thường:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Người thiếu nữ xóm núi xay ngô hiện lên trong bức tranh. Hình ảnh bình dị, đời thường nhưng lấp lánh. Đó là ánh sáng của tuổi trẻ, của sức sống trong lao động. Đồng thời, là vẻ đẹp của mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, nơi con người là trung tâm, là chủ thể của vũ trụ.
Câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa giữa nét vẽ cổ điển và lãng mạn. Tính cổ điển thể hiện ở bóng tối, lò than rực hồng, nhưng chữ “hồng” là đường sáng, toả ánh sáng từ bóng tối, thể hiện niềm tin, lạc quan vào tương lai.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng. Bút pháp gợi tả thiên nhiên giản dị, tự nhiên mà vô cùng chân thực. Có sự đan xen, hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.
Chiều tối đã khắc họa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, là tâm hồn lạc quan, tin tưởng của Hồ Chí Minh. Bức tranh này là ánh sáng cuối con đường, niềm tin vào tương lai của dân tộc.
9. Phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Hồ Chí Minh số 8
Nguyễn Ái Quốc, vị anh hùng dân tộc, không chỉ là nhà văn hóa lỗi lạc mà còn là một nhà thơ lớn. Bài thơ “Mộ” của ông thể hiện tình yêu thiên nhiên và quê hương một cách sâu sắc:
“Đàn chim hòa nhạc, lững lờ trên bầu trời rộng lớn.
Sơn thôn thiếu nữ xinh đẹp, xay ngô trong chiều tối,
Lò than phát sáng, tô điểm cho bức tranh ấm áp.”
Bức tranh thiên nhiên được vẽ trong rừng già mênh mông và bầu trời rộng lớn khi ông di chuyển từ nhà ngục Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo:
“Đàn chim hòa nhạc, lững lờ trên bầu trời rộng lớn.
(“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”)
Ngôn từ của ông không mô tả cụ thể, chi tiết mà tập trung vào điểm nhấn, điểm xuyết. Hình ảnh cánh chim lúc hoàng hôn là minh họa cho điều này. Cánh chim không chỉ là biểu tượng mệt mỏi, mà là hình ảnh của sự tròn trịa, chờ đợi nghỉ ngơi. Ông như là cánh chim, trải qua ngày dài lao động, bay về nơi tìm kiếm bình yên. Hình ảnh “ma bao túc” là biểu tượng cho tâm trạng của nhà thơ.
“Ngày lao động vất vả, áo mũ dầm mưa, giày rách hết đường đê.
(“Những bước chân trên con đường Tĩnh Tây” – Hồ Chí Minh)
Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh đám mây đơn độc thể hiện tâm trạng khác. “Cô” trong câu thơ giống như đang mất đi sự biểu đạt tốt nhất tâm trạng. Nó không chỉ là đám mây, mà là hình ảnh của sự cô đơn trên bầu trời cao rộng. Như con người khi đất nước còn nô lệ, không ai cảm thấy an yên, hạnh phúc. Với tâm hồn yêu nước, điều này càng trở nên khó khăn. Bài thơ dựa vào sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Thay đổi thời gian và không gian khiến bức tranh trở nên gần gũi:
“Sơn thôn thiếu nữ xinh đẹp, xay ngô trong chiều tối,
Lò than phát sáng, tô điểm cho bức tranh ấm áp.”
(“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”)
Chuyển đến điểm nhìn của cuộc sống con người, cô gái núi trở thành chủ thể. Bối cảnh chiều tối trở nên ấm áp với ánh sáng từ lò than. Ánh sáng này như xua tan bóng đêm, làm cho không khí trở nên ấm áp hơn. “Hồng” là biểu tượng, mang ý nghĩa sâu sắc về cuộc đấu tranh của dân tộc. Bài thơ truyền đạt niềm tin, sự lạc quan vào cuộc đấu tranh của dân tộc.
Tóm lại, bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc: kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, ngôn từ phong phú, nội dung mới lạ, diễn đạt đơn giản nhưng sâu sắc. Bức tranh về thiên nhiên, tâm trạng và lòng người được ông diễn đạt tinh tế, phản ánh tầm nhìn đại dương và trí tuệ của một nhà lãnh đạo và nhà văn vĩ đại.
10. Phân tích tác phẩm ‘Chiều tối' của Hồ Chí Minh số 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc và chiến sĩ cộng sản, không chỉ là lãnh tụ cách mạng mà còn là một nhà văn hóa với những đóng góp xuất sắc trong văn chương. Bài thơ ‘Chiều tối' được sáng tác trong những tháng ngày giam giữ vô cớ, nhưng vẫn toát lên tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh.
Tháng 8 năm 1942, Bác sang Trung Quốc để tìm sự hỗ trợ quốc tế. Sau nửa tháng bộ hành đến Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong 13 tháng. Trong thời kỳ này, Bác đã sáng tác tập thơ ‘Nhật kí trong tù' với 134 bài viết bằng chữ Hán, trong đó có bài thơ ‘Chiều tối' (bài số 31) khi Bác chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942.
Trong bài thơ, Bác mô tả cảnh thiên nhiên và lao động nơi đất khách quê người. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu tiên của Bác tả cảnh núi rừng với hình ảnh cánh chim mệt mỏi và đám mây cô đơn:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Dịch thơ)
Chim mòi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Bác sử dụng bút pháp chấm phá điểm nhãn, tượng trưng cổ điển để khắc họa hình ảnh cánh chim và đám mây. Hình ảnh cánh chim mỏi mệt là chi tiết gợi mở không gian mênh mông, niềm vui buổi chiều. Từ ‘Quyện' trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt, là đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim nhỏ bé trước bầu trời rộng lớn làm nổi bật tâm trạng mệt mỏi, tự do. Bài thơ tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều, nhưng Bác vẫn muốn được nghỉ ngơi sau những ngày lao động vất vả.