Bài Viết: Phân Tích Tùy Bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
I. Bản Tóm Tắt Chi Tiết
II. Bài Mẫu
1. Mẫu Số 1
2. Mẫu Số 2
3. Mẫu Số 3
4. Mẫu Số 4
Dàn Ý và Bài Văn Mẫu Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà của Nguyễn Tuân – Hấp Dẫn và Cuốn Hút
Bí Quyết Phương Pháp Phân Tích Bài Thơ và Đoạn Thơ để Đạt Điểm Cao
I. Dàn Ý Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà của Nguyễn Tuân (Ngắn Gọn và Đầy Đủ):
1. Mở Đầu Bài Viết
– Giới thiệu về tác giả: Nguyễn Tuân, một nhà văn kiên trì tìm kiếm và khám phá vẻ đẹp suốt cuộc đời.
– Giới thiệu về tác phẩm: “Người lái đò sông Đà,” trích từ tập tùy bút “Sông Đà,” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
2. Thân Bài
* Tổng Quan
– Tác phẩm là thành quả của hành trình khám phá Tây Bắc, nơi Nguyễn Tuân tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng đã qua thử lửa” của những con người nơi đây.
a. Vẻ Đẹp Đen Tối của Dòng Sông
+ Bên Bờ Sông
– Vách đá sáng bóng, cao ngút, đứng thẳng.
– Quãng sông hẹp như “con nai, con hổ có thể nhảy từ bờ này sang bờ kia”.
– “Mặt sông chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đi qua quãng ấy như đi dưới ánh đèn chớp.”
– Người đi qua cảm thấy như “đang ở trong một ngõ nhỏ, ngước lên cửa sổ tầng nào đó vừa tắt đèn.”
→ Sông Đà hiện lên hung vĩ, u ám, làm cho ai đến cũng phải sợ hãi.
+ Ghềnh Đẹp Đáng Sợ
– Ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, từng dòng gió gùn ghè cả năm…”.
– “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa miêu tả âm thanh đáng sợ, vừa vẽ lên hình ảnh khủng khiếp của nơi này.
– Miêu tả như những kẻ đòi nợ
→ Mang đến nguy hiểm mà con người không đoán được.
+ Nước Hút
– Nhìn từ xa, xoáy nước trên sông giống như lúm đồng tiền trên khuôn mặt cô gái, có thể kéo xuôi xuống lòng sông, làm chìm một chiếc thuyền.
– Hút nước như giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu.
– “Nước tại đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.”
→ Với ngòi bút tinh tế, Nguyễn Tuân mang đến cho độc giả cảm giác như đang trải qua một bộ phim hành động đầy kinh dị.
+ Sức Mạnh Thác Nước
– Tiếng thác như “oán trách,” nghe như “van nài,” “khiêu khích,” và “chế nhạo”.
– “Thế rồi nó rống lên”, so sánh tiếng thác sông Đà như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng lồng lên trong rừng lửa.
→ Tạo hình ảnh mãnh liệt của nước sông.
+ Khối Đá
– “cả một chân trời đá” → đá sông Đà vô tận.
– từng viên đá mặt hòn nào cũng “ngỗ ngược,” “nhăn nhúm,” “méo mó”.
– Vây quanh như một trận đồ thạch trận trên sông Đà.
→ Sông Đà trở thành kẻ thù số một của con người
b. Vẻ Đẹp Trữ Tình của Sông Đà
– Sông Đà “tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu mối và bờ tóc ẩn trong mây trời Tây Bắc ngập đầy hoa ban, hoa gạo tháng hai và đỉnh núi mờ ảo khói đốt nương xuân.”
– Không chỉ đẹp về…
hình dáng, màu nước cũng thật tuyệt vời: xuân xanh ngọc bích, thu chuyển màu nước sông như da mặt người bầm vì rượu.
– Sự so sánh vô cùng tinh tế khi mô tả dòng sông như “bờ sông nguyên sơ như tấm gương của thời tiền sử”, “bờ sông thuần khiết như một chuyện cổ tích từ xa xưa”.
→ Với những đoạn văn lôi cuốn, tác giả đã khắc họa nên một bức tranh vô cùng thơ mộng về sông Đà.
* Đánh Giá Chung
Nhờ sự am hiểu sâu rộng và khả năng diễn đạt tinh tế, tác giả đã dẫn dắt người đọc từ cảm giác kinh sợ này đến sự ngạc nhiên khác khi miêu tả vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
3. Tổng Kết
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm
II. Mẫu Bài văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân từ học sinh giỏi siêu xuất sắc
1. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn nhất, mẫu số 1 (Chuẩn):
Khi nói đến Nguyễn Tuân, ta nhớ ngay đến một nhà văn cả đời tìm kiếm cái đẹp. Trong tác phẩm của ông, cái đẹp không chỉ là trạng thái hoàn hảo mà còn là sự hoàn mỹ. Nguyễn Tuân đã đạt nhiều thành công trong sự nghiệp văn chương của mình, cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” được chọn từ tập tùy bút “Sông Đà” tiêu biểu cho một trong những tác phẩm xuất sắc của ông sau cách mạng tháng Tám.
Ngoài việc tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây, tác phẩm của Nguyễn Tuân còn thể hiện kết quả của hành trình tìm kiếm này.
Ngay từ những dòng văn đầu tiên, Nguyễn Tuân mô tả rõ nét sự hung bạo của sông Đà. Bờ sông không chỉ là những đường cát trắng mơ màng, mà còn là bức tường cao vút, đứng đằng. Quãng sông hẹp đến mức “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, là cái lạnh dần ngấm vào từng lớp da, là nỗi sợ hãi trước vẻ đẹp hoang sơ của tự nhiên. Qua đoạn này, người ta cảm nhận mình “đang đứng ở một cái ngõ nào đó, ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà nào đó vừa tắt đèn điện”. Qua các hình ảnh đầy sắc nét, Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới đô thị về với vẻ đẹp bí ẩn của thiên nhiên sông nước. Sông Đà hiện ra trước mắt với nét sâu, hẹp, tối và lạnh đủ khiến bất kỳ ai đến đây cũng phải kinh sợ.
Với bảy mươi ba ghềnh, nhưng đáng sợ nhất vẫn là ghềnh Hát Loóng với “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Những từ láy như “cuồn cuộn”, “gùn ghè” không chỉ tái hiện âm thanh rùng rợn mà còn làm nổi bật hình ảnh kinh hoàng của nơi này. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những ai đang trên sông. Những nguy hiểm mà con người không thể lường trước có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào.
Đặc biệt hơn, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để miêu tả sự hung bạo của hút nước sông Đà. Xoáy nước từ xa giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, nhưng thay vì duyên dáng, nó có thể cuốn trôi chiếc thuyền xuống đáy sông và phá tan tành. Ông còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. So sánh này vừa thể hiện độ sâu của những cái xoáy nước, vừa gây liên tưởng đến cảnh tượng đáng sợ. Mô tả âm thanh của hút nước khiến người đọc cũng phải rùng mình. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước dồn về mạnh mẽ, nhanh chóng và còn ặc.
Đoạn văn như đang rót dầu sôi. Từ láy ‘ặc ặc' gợi lên cảm giác sông Đà là một sinh vật thủy quái bị bóp nghẹt, đang rên rỉ và quằn quại trong đau khổ. Bút lực sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc như đang theo dõi một bộ phim hành động đầy lôi cuốn nhưng kinh dị.
Sự dữ tợn của sông Đà được tác giả thể hiện rõ qua những dòng thác nước cuồn cuộn. Nguyễn Tuân tập trung vào âm thanh, từ xa đến gần. ‘Còn xa lắm mới đến cái thác', nhưng tâm hồn và diện mạo của ‘kẻ thù số một của con người' dần hiện ra. Âm thanh của thác vang lên ‘réo gần mãi lại réo to mãi lên'. Tiếng thác như ‘oán trách', ‘van xin', ‘khiêu khích', giọng gằn mà ‘chế nhạo'. Sự kết hợp tinh tế giữa so sánh và nhân hoá làm cho sông Đà trở nên phức tạp hơn. ‘Thế rồi nó rống lên', âm thanh như đến đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Tiếng thác sông Đà giống hệt tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn, phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Bài văn Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà lớp 12
Nguyễn Tuân đã vẽ lên vẻ dữ tợn của sông Đà qua việc tả đá sông. ‘Cả một chân trời đá', đá sông Đà trở nên vô số với từng tảng ‘ngỗ ngược', ‘nhăn nhúm', ‘méo mó' tụ về, tạo thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Dưới bút của Nguyễn Tuân, con sông dữ tợn này giống như kẻ thù không khoan nhượng của con người. Tuy nhiên, phía sau sự dữ tợn ấy, nó lại hiện lên với vẻ trữ tình, thơ mộng đầy bất ngờ.
Nhìn từ trên máy bay, sông Đà hiện ra như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân. Cách so sánh này khiến sông Đà trở nên như một tác phẩm nghệ thuật.
Sông Đà không chỉ đẹp về dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tùy theo không gian và thời kỳ, dòng sông thay đổi màu sắc: mùa xuân, nước xanh ngọc bích, còn mùa thu, sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự mô tả chi tiết và so sánh độc đáo của tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp đa dạng và sâu sắc của sông Đà.
Bờ bãi sông Đà mênh mông, ‘bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà'. Câu văn ngắn gọn tạo nên nhịp văn hối hả. Từ trên thuyền, sông Đà trở nên ‘lặng tờ', tĩnh lặng tuyệt đối nhưng sức sống mãnh liệt vẫn hiện diện. Cách mô tả trực quan và sự so sánh tinh tế giúp sông Đà hiện ra không chỉ như một không gian mà còn như một dòng sông của thời gian. Giữa khung cảnh thơ mộng, tiếng còi tàu đường sắt nối tiếp, đưa chúng ta trở lại cuộc sống hiện đại.
Bằng cách miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. Đó là chất thơ ẩn trong cảnh sắc và tâm hồn con người.
2. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân phiên bản 2:
Người lái đò sông Đà là một kiệt tác độc đáo và đặc trưng cho phong cách sáng tạo của Nguyễn Tuân sau thời kỳ Cách mạng Tháng Tám: Uyên bác, tài năng, không ngần ngại gian lao để sáng tác những bức tranh văn hóa đậm chất, mang đến cho người đọc và người nghe cảm nhận về tâm hồn khát khao hòa nhập với nhịp độ phát triển của quốc gia và cuộc sống.
Tác phẩm là kết quả của hành trình ngược dòng miền Tây Bắc giai đoạn 1958-1960 đầy trải nghiệm của tác giả, được xuất bản lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà mênh mông, uốn lượn qua các dãy núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Đặc điểm này đã tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, hoang sơ và hùng vĩ của Đà giang. Hình ảnh sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của người lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là một danh nhân văn hóa trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông đạt được những thành tựu lớn ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám.
Sau năm 1945, tác phẩm có ý nghĩa đáng kể của ông là tập “Vang bóng một thời”, bao gồm mười một câu chuyện tuyệt vời trước năm 1945. Nguyễn Tuân giữ vững phong cách sáng tạo cá nhân trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ông là nhà văn kiên trì theo đuổi cái đẹp, khám phá thế giới qua học thuật và mỹ học. Nhân vật của ông đều có vẻ đẹp của những ngôi sao nghệ sĩ tài hoa, còn thiên nhiên trong văn ông trở thành những tác phẩm nghệ thuật kỳ diệu. Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” từ tập tùy bút Sông Đà viết năm 1960, là kết quả của chuyến đi đầy hứng khởi đến vùng Tây Bắc khắc nghiệt. Chuyến đi này không chỉ giải quyết niềm đam mê “xê dịch” của ông mà còn là dịp để khám phá vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây, dù đầy rẫy nguy hiểm nhưng cũng rất lôi cuốn.
Tác phẩm bị chi phối bởi hai biểu tượng chính: hình ảnh sông Đà và người lái đò, những người đối mặt không ngừng với những thử thách thiên nhiên khắc nghiệt. Nguyễn Tuân, bằng tài năng văn bút đặc trưng, đã vẽ nên hình tượng Đà giang với hai mặt đối lập, vừa hùng vĩ và hung bạo, vừa trữ tình và thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc qua những cảm xúc từ nỗi sợ hãi tới niềm đam mê và hứng thú. Qua sức sáng tạo phong phú và lối viết nhạy bén độc đáo, sông Đà hiển hiện trước mắt độc giả với sự kết hợp của nỗi sợ hãi và sự hấp dẫn không ngừng. Vẻ hung bạo của sông Đà thể hiện qua hình ảnh ‘đá bờ sông dựng vách thành', ẩn dụ cho những khối đá giống như pháo đài kiên cố, hiểm nguy và bí ẩn, gây ra sự đe dọa trực tiếp. Bờ sông được miêu tả với vách đá ‘chẹt lòng sông như một cái yết hầu', hai bên bờ sông có những con hươu, con nai nhảy qua, tạo ra chiều cao và hẹp của vách đá giữa lòng sông. Cảm giác sợ hãi và nhỏ bé khi ngồi thuyền qua khúc sông, ngay cả vào mùa hè nóng bức, khiến khung cảnh trở nên kỳ diệu và chật hẹp.
Bức tranh hung bạo của sông Đà còn được khắc họa qua ghềnh Hát Loóng. Những cây số ‘nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió' tạo nên loạt hình ảnh mạnh mẽ, tăng cường cảm giác sống động và mãnh liệt. Nghệ thuật diễn đạt qua việc lặp lại động từ ‘xô' nhiều lần. Sức mạnh tự nhiên trở nên đáng sợ, lạnh lùng, ‘gùn ghè' như một con thú dữ, sẵn sàng thách thức con người.
Cảnh tượng ‘hút nước' khổng lồ trên sông Tà Mường Vát. Xoáy nước ‘như những cái giếng bê-tông' được thả xuống, nước ‘thở và kêu như một cái cống bị sặc'. Sự kết hợp của nhân hoá và so sánh làm câu chuyện thêm sống động và hấp dẫn. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không ai dám lại gần, nếu không sẽ bị hút vào và biến mất xuống đáy sông.
Khúc thác sông Đà nổi bật với vẻ hung dữ và mãnh liệt. Nguyễn Tuân sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo nên bức tranh sống động: tiếng ‘réo gần mãi lên, réo to mãi lên' từ thác xa, âm thanh ‘oán trách', ‘van xin', ‘khiêu khích', giống như hàng ngàn con trâu mộng đang gầm thét, đấu tranh giữa đám cháy rừng. Cảnh tượng hỗn loạn và đẹp đẽ đến kỳ diệu.
Top những bài Phân tích Người lái đò sông Đà
Những tảng đá sông Đà tạo nên một ‘chân trời đá' lớn, mỗi tảng đá như một con người với nét ‘ngỗ nghịch', ‘nhăn nhúm', ‘méo mó'. Sông Đà dường như giao nhiệm vụ cho từng tảng đá để thách thức con người. Tác giả mô phỏng trận chiến ‘thạch trận' đầy cam go, với các ‘cửa tử' và ‘cửa sinh' khó lường, tạo nên vẻ thách thức và hung bạo.
Mặc dù vậy, sông Đà cũng có những khoảnh khắc trữ tình, thơ mộng và dịu dàng.
Đà giang được khắc họa qua nhiều lăng kính khác nhau, từ các không gian và thời kỳ khác nhau. Nhìn từ trên cao, con sông nhấp nhô như mái tóc của thiếu nữ Tây Bắc, đẹp và mềm mại. Sắc nước sông thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một nét đẹp riêng: xuân có màu ngọc bích, thu thì đỏ chín. Sông Đà tựa người phụ nữ đẹp, luôn biến đổi nhưng vẫn giữ được vẻ kiêu sa và đa dạng.
Sông Đà hiện lên dịu dàng như một người bạn cũ, bờ sông ngập tràn sự êm đềm, tươi đẹp như ánh nắng tháng ba trong thơ Đường. Người bạn cũ này giờ đã trở nên yên bình, lặng lẽ nhìn thấy thời gian trôi qua và ngắm phong cảnh bên bờ sông. Bờ sông Đà vẫn hoang sơ như chuyện cổ tích, phong phú nhờ lớp lớp phù sa bồi đắp. Đồng ngô mọc lên từng mảnh lá non, cỏ dần dần ra những mầm non, và xa xa là đàn hươu nhai cỏ. Sông Đà trở thành một bờ tiền sử, kết nối với những câu chuyện cổ tích xưa.
Sông Đà được miêu tả sinh động qua các kỹ thuật nghệ thuật độc đáo như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa và động từ mạnh. Nguyễn Tuân viết nên những câu văn giàu nhịp điệu và sống động, biến con sông vô tri trở thành một thực thể có hồn và suy tư.
Trong tác phẩm, con người đóng vai trò quan trọng không thể thiếu. Thiên nhiên càng vĩ đại và hùng tráng, thì vẻ đẹp và trí tuệ của con người lao động càng rực rỡ. Người lái đò tượng trưng cho người lao động chăm chỉ và can đảm, đối mặt với thiên nhiên một cách kiên định. Mặc dù sông Đà là đối thủ đáng gờm, người lái đò vẫn thể hiện sự nhỏ bé nhưng kiên cường trước sức mạnh thiên nhiên, đồng thời bộc lộ sự thông minh và tài năng của một nghệ sĩ.
Tinh thần anh dũng, tài hoa và trí tuệ của người lái đò hiện rõ qua cảnh vượt thác sông Đà. Trong cuộc chiến thử thách này, ông không nao núng, mà trái lại, từng bước chiến thắng các cản trở. Nguyễn Tuân miêu tả một trận chiến ‘thạch trận' sống động, với những ‘cửa tử' và ‘cửa sinh' bí ẩn. Dù bị thương, ông lái đò vẫn kiên định giữ chặt buồng lái, thể hiện sự kiên trì và tỉnh táo. Cuối cùng, chiến thắng thuộc về người lái đò, vượt qua thử thách khắc nghiệt.
Không ngưng nghỉ, không dừng lại, ông tiếp tục phá vỡ vòng vây thứ hai. Lần này, chiến thuật mới xuất hiện. Ông lái đò giữ bí mật của ‘thần sông Đà', tận dụng quy tắc phục kích của đá tại ải nước hiểm trở này. Sông Đà, gian ác với nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lệch về hữu ngạn. Như ‘cưỡi hổ', ông lái đò không do dự, đi thẳng vào cửa sinh, vượt qua các cửa tử và đá ‘không ngừng khiêu khích'.
Chiến trận cuối cùng, ít cửa ải hơn, hai bên đều là luồng chết. Sông Đà, vẫn khao khát chiến thắng, muốn nuốt chửng thuyền trong trận quyết định này. Nhưng người lái đò, đã trải qua nhiều trận đánh, tích lũy nhiều kinh nghiệm, giữ bí mật, đưa thuyền thẳng vào ‘chọc thủng cửa giữa', vượt qua luồng sinh, chiến thắng đối thủ hung bạo.
Nguyễn Tuân dựng hình tượng người lái đò sông Đà với nghệ thuật đặc sắc. Ông sử dụng ngôn ngữ phong phú: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm nhạc… cùng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, với nhịp điệu câu văn hài hòa và sinh động. Hình ảnh người lái đò trở thành biểu tượng cho trí tuệ, tài năng và dũng cảm của người lao động Tây Bắc mang phẩm chất cao quý.
Đoạn trích về người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một tác phẩm vô cùng quý báu, thành công trong việc dựng hình tượng và tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên và con người miền Tây Bắc. Tác giả thể hiện tình cảm sâu sắc, tận tâm, và sự gắn bó mãnh liệt với quê hương, đất nước, và con người Việt Nam.
3. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với mẫu số 3: (Chuẩn)
Nguyễn Tuân, ra đời năm 1910 và mất vào năm 1987, là một ngòi bút danh tiếng của văn học Việt Nam. Ông là một trí thức yêu nước, có tư duy sâu sắc về văn hóa dân tộc, đã sáng tác nhiều tác phẩm uyên bác, giàu giá trị. Trước cách mạng,Tác phẩm của ông thường tô điểm cho vẻ đẹp tài hoa của những con người ‘một thời vang bóng' như Huấn Cao. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân cuốn hút độc giả nhờ sự tinh tế và tài năng trong việc khắc họa các nét đẹp bình dị, thân thuộc trong thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút ‘Người lái đò sông Đà' là một minh chứng rõ ràng cho phong cách văn học đó.
Trong tuyển tập, Sông Đà được miêu tả với nhiều góc độ khác nhau, lúc thì hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội, lúc thì xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã khéo léo diễn tả sông từ nhiều khía cạnh, mỗi khía cạnh đều mở ra cho ta một vẻ đẹp và tình yêu thương. Không chỉ hấp dẫn trong bức tranh bình lặng của hàng tre mỗi trưa hè, Sông Đà còn hiện lên mạnh mẽ, sống động khi màn đêm buông xuống. Con sông trở thành ‘kẻ thù số một của con người'. Những con thác, những dòng nước từ Vạn Yên chảy về xuôi tạo nên một bức tranh rộng lớn. Hai bờ sông như những vách đá nguy hiểm vô cùng. Nước và sóng đua nhau phô bày vẻ dữ tợn, oai hùng. Đây là những thách thức mà bất kỳ ai ngang qua sông Đà đều phải đối mặt. Sông dũng mãnh, bạo ngược, sẵn sàng nhấn chìm bất kỳ chiếc thuyền nào không biết điều khiển tốt.
Nhờ vào hiểu biết và trải nghiệm sâu sắc, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn từ mới lạ, linh hoạt, độc đáo để tả về Sông Đà. Con sông hiện lên đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, giống như nét thu hút của người thiếu nữ Tây Bắc. Sông Đà trở nên trữ tình, khơi dậy tình yêu thương và tạo nên một sự hấp dẫn kỳ lạ. Đôi khi, Sông Đà mang trong mình những cảm xúc, cảm giác như người, đầy nhớ nhung và tình cảm ấm áp. Vẻ đẹp của sông được phản ánh qua thiên nhiên, mây trời, tạo nên một nét đặc trưng riêng biệt. Mỗi thời điểm trong năm, Sông Đà mang đến sự thú vị với màu sắc nước thay đổi: ‘Mùa xuân, sông mang màu xanh ngọc bích, không giống màu xanh của Sông Gâm, Sông Lô. Đến mùa thu, nước Sông Đà chín đỏ như da mặt người say rượu, như màu đỏ giận dữ của người khi mùa thu về thiếu sự hài lòng.'
Bài phân tích văn mẫu về tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bờ sông Đà hiện ra với đầy màu xanh của cỏ non, mùi hương hoa, bướm, chuồn chuồn, và cả những cánh đồng ngô xanh tươi. Hình ảnh đàn hươu gặm cỏ trong sương đêm cùng với mọi sinh vật hòa nhịp với vẻ đẹp tuyệt vời của sông tạo nên một bức tranh hấp dẫn. Với cảm xúc chân thành và lòng trân trọng, Nguyễn Tuân đã biểu hiện một cách xuất sắc vẻ đẹp của những điều giản dị, nhỏ bé. Ông đã tạo nên một bức tranh tuyệt vời về Sông Đà, đầy chất trữ tình.
Bên cạnh hình ảnh hùng vĩ của Sông Đà, tác phẩm còn khắc họa hình ảnh người lái đò tài năng, nghệ sĩ và duyên dáng trên dòng sông. Người lái đò không phải là một thanh niên trai tráng, mà là một ông già gần bảy mươi tuổi, đã trải qua hàng trăm hành trình. Kinh nghiệm dồi dào giúp ông trở nên thuần thục và kiên định. Người lái đò giống như ‘vàng mười', đã vượt qua thách thức của sóng kinh hoàng và thạch trận nguy hiểm. Trước những con sóng dữ, ông không hề sợ hãi, trái lại còn hứng khởi. Ông vượt qua ba thạch trận và trở về cuộc sống bình yên. Đây là hình ảnh của một người lao động kiên định, đương đầu với khó khăn để tìm niềm vui trong cuộc sống.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một kiệt tác độc đáo, với phong cách nghệ thuật uyên bác và đầy tài hoa. Khi đọc tùy bút ‘Người lái đò sông Đà', tôi không ngừng cảm nhận những cảm xúc sâu sắc. Đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời mà văn học mang lại, khiến tâm hồn chúng ta rung động. Tôi biết ơn Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm cái đẹp, để gìn giữ và nâng niu những giá trị vững bền của cuộc sống và dân tộc.
4. Mẫu văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đạt điểm xuất sắc, mẫu số 4
4.1. Bài văn:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Tổng quan nội dung tác phẩm.
4.1.2.Phần chính:
4.1.2.1. Tổng quan:
– Lời đề và tên tác phẩm nói về thiên nhiên và con người.
– Sự đối lập trong vẻ đẹp của dòng sông Đà và hình ảnh lao động của người dân Tây Bắc.
4.1.2.2. Phân tích:
4.1.2.2.1. Dòng sông Đà:
a, Vẻ đẹp hung bạo:
* Cảnh sông Đà gồm vách đá, ghềnh Hát Loóng, Tà Mường Vát.
* Trận địa thác đá với tiếng thác nước biến chuyển linh hoạt, đối đầu với con người.
=> Sông Đà trở thành kẻ thù của con người.
b, Vẻ đẹp trữ tình:
– Nhìn từ trên cao: ‘dây thường ngoằn ngoèo', ‘áng tóc trữ tình'.
– Màu nước sông thay đổi theo mùa.
– Sông Đà như một người bạn cũ, bờ sông hoang dại như xưa.
4.1.2.2.2. Người lái đò:
a, Lai lịch và công việc:
– Đơn giản chỉ gọi là ‘ông đò'.
– Nghề nghiệp: lái đò đưa khách qua sông.
b, Phẩm chất:
– Là ‘chiến sĩ' dũng cảm trên ‘mặt trận' sông Đà.
– Nghệ sĩ tài hoa trong việc vượt thác.
– Lao động bình dị và thầm lặng cống hiến.
4.1.3. Đánh giá:
– Tác phẩm của Nguyễn Tuân đổi mới, từ vẻ đẹp ‘vang bóng' đến vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.
– Vẻ đẹp sông Đà và hình ảnh con người lao động được ngợi ca.
– Ngôn ngữ điêu luyện với liên tưởng độc đáo và kiến thức đa ngành.
4.1.4. Kết luận:
– Khẳng định giá trị của tác phẩm.
– Mở rộng liên kết.
4.2. Bài văn mẫu Phân tích Người lái đò sông Đà chọn lọc nhất:
‘Người lái đò Sông Đà' là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam sau Cách mạng. Tác phẩm này tái hiện chân thực vẻ đẹp dữ dội và nên thơ của dòng sông Đà, đồng thời tôn vinh người lao động qua hình ảnh người lái đò tài ba.
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, không ít tác phẩm đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp hoang sơ và trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Với chủ nghĩa ‘xê dịch' và niềm đam mê khám phá, Nguyễn Tuân đã viết nên tùy bút ‘Người lái đò Sông Đà'. Bức tranh của ông không những thể hiện được hai mặt đối lập của sông Đà mà còn tả rõ hình ảnh người lao động cao cả, đồng thời dân dã và bình dị.
Dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, đôi lúc dữ dội. Đá bờ sông ‘đứng vách thành', ‘chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu' tạo nên một không gian ngột ngạt và lạnh lẽo. Nguyễn Tuân tả chi tiết từng nét dữ dội của Đà giang, từ ghềnh Hát Loóng hỗn loạn đến những cái hút nước đặc biệt ở Tà Mường Vát. Ông sử dụng hình ảnh ‘ô tô sang số ấn ga' để mô tả một cảnh quay kịch tính. Thác nước trở thành ‘quãng thủy chiến' khắc sâu những cuộc chiến gian lao với người lái đò. Tiếng thác từ xa ‘réo to mãi lên', như nghìn con trâu mộng, tạo nên khung cảnh hùng tráng.
Không chỉ dữ dằn, sông Đà còn có vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình. Nhìn từ trên cao, Nguyễn Tuân ví sông như ‘một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo'. Mặt nước êm ả hơn với màu sắc thay đổi theo mùa, tạo nên cảm giác hùng vĩ và trữ tình. Bờ sông hoang dại nhưng đẹp như một bức tranh, hồn nhiên như câu chuyện cổ tích tuổi xưa.
Hình tượng người lái đò được tả rõ nét trong tác phẩm. Họ là những người vô danh nhưng có tầm cao không kém thiên nhiên hùng vĩ. Trước sự tấn công dữ dội của sóng nước, người lái đò vẫn dũng cảm vượt qua. Họ uyển chuyển và vững chắc trên tay chèo, chinh phục từng cửa ải khó khăn. Trước những trận chiến cam go, họ như nghệ nhân trong nghệ thuật vượt thác. Sau những phút gian truân, họ trở về cuộc sống yên bình, đốt lửa, nướng cơm lam và tận hưởng vẻ đẹp của con người lao động.